TÀI LIỆU HỌC TẬP
VỀ LỊCH SỬ GIÁO PHẬN THÁI BÌNH
1. Hạt giống Tin Mừng và dấu ấn các thừa sai dòng Tên
Hạt giống Tin Mừng được gieo vào miền đất Thái Bình từ rất sớm. Đó là năm 1626, thừa Sai Juliano Baldinotti và tu sĩ Julio, Dòng tên, chắc chắn đã dừng chân ở Phố Hiến để làm thủ tục vào Thăng Long. Chính ngài nhận ra đây là mảnh đất mầu mỡ để rao giảng tin mừng, nhưng vì không thạo tiếng Việt, đã xin nhà Dòng cử cha Đắc Lộ và Marquez đến Cửa Bạng năm sau (1627). Cha chỉ rửa tội được bốn trẻ em hấp hối, nhưng đã được chúa Trịnh Tráng tiếp đãi nồng hậu, dựng nhà cho ở và gửi đến một hòa thượng để bầu bạn sớm hôm. Ngoài ra cha Đắc Lộ cũng nói đến việc cha Baldinotti rời Macao ngày mùng 2 tháng 2, mà ngài coi là điềm lành, vì ngày lễ nến, ngày Đức Kitô là “ánh sáng rạng soi cho dân ngoại”,
Sau đó, năm 1638, đời vua Lê Thần Tông, niên hiệu Dương Hòa thứ tư, cha Felice Morelli - một vị thừa sai dòng Tên, người Ý - sau khi được cử đến rao giảng tại vùng Kẻ Chợ, đã xuôi dòng sông Hồng rồi rẽ vào sông Luộc đến giảng đạo tại làng Bồ Trang (thuộc xứ Bồ Ngọc, Giáo phận Thái Bình ngày nay). Cuộc gặp gỡ với người dân nơi đây đã trở thành cuộc gặp gỡ lịch sử, mang đến Hồng ân Cứu độ cho người dân đất Chèo. Từ đây, Tin Mừng dần dần được lan rộng ra các làng khác trong phủ Thái Bình như Lai Ổn, Ninh Cù.
Hai năm sau khi rao giảng tại làng Bồ Trang, cha Felice Morelli thay thế cha bề trên Gaspar d’Amaral, lãnh đạo Giáo phận Đàng Ngoài. Thời gian này, vua Lê - chúa Trịnh rất có cảm tình với các thừa sai, chúa Trịnh Tạc đã nhận cha Felice Morelli làm dưỡng tử và gọi ngài là Phúc Ông (dịch từ chữ Felice). Trong hoàn cảnh thuận lợi, năm 1645, cha Felice Morelli đã lập xứ Kẻ Bái (xứ Bồ Ngọc ngày nay) - xứ đầu tiên trên đất Thái Bình. Kẻ Bái đã trở thành cái nôi Đức Tin của Giáo phận. Đây là thành quả đầu tiên của các thừa sai nói chung, đặc biệt là cha Felice Morelli. Biến cố đặc biệt này được dân gian ghi lại qua bài vè:
Bảy năm đi hết cả miền,
Thì thầy ở lại hẳn miền Bồ Trang,
Lập nên xứ Bái rõ ràng,
Nam xuống Lai Ổn, Đông sang Ninh Cù.
Chuông treo trống sắm cờ mua,
Bấy giờ là lúc hết mùa Giêgiung (Mùa Chay)
Năm 1649, cha Felice Morelli trao quyền lãnh đạo Giáo Hội Đàng Ngoài cho cha Girolamo Magori và trở về Macao năm 1650.
Như vậy, thừa sai Baldinotti là tổ phụ truyền giáo của Thái Bình và cả giáo phận Đàng Ngoài.
Năm 1659, Đức Thánh Cha Alexandro VII công bố sắc lệnh thành lập hai giáo phận tại Việt Nam: Giáo phận Đàng Trong (gồm khu vực chúa Nguyễn, Cao Miên và Thái Lan) dưới sự cai quản của Đức cha Lambert de la Motte, và Giáo phận Đàng Ngoài (khu vực Bắc Hà) dưới sự cai quản của Đức cha Francois Pallu. Khi ấy, mảnh đất Thái Bình thuộc Giáo phận Đàng Ngoài.
Năm 1665, Đức cha Francois Pallu về Roma xin Tòa Thánh cử thêm các thừa sai, Đức cha Lambert de la Motte kiêm nhiệm Giám quản Đàng Ngoài.
Giữa năm 1666, thừa sai Deydier - Tổng đại diện của Đức cha Francois Pallu - đã đến Đàng Ngoài, ngài cùng các thừa sai nhà MEP (Hội thừa sai Paris) đã đi thăm viếng các giáo xứ do các thừa sai dòng Tên thiết lập trước đó như Kẻ Diền (xứ Duyên Lãng) và Kẻ Hệ (xứ Ninh Cù).
Tháng 6/1669, Đức cha Lambert cùng với hai thừa sai là De Bourges và Bouchard đặt chân tới Phố Hiến bằng tàu buôn nước ngoài. Sau 6 tháng hoạt động tại Đàng Ngoài, các ngài đã ban bí tích Rửa tội và Thêm sức cho nhiều người. Ngài đã tiến hành nhiều chương trình mục vụ tại Đàng Ngoài.
Ngày 19/02/1670, Đức cha nhận lời khấn đầu tiên của 2 nữ tu Annê và Paola, tại Kiên Lao (Bùi Chu) thiết lập Dòng Mến Thánh Giá ngày 26/2/1670, là nền tảng của hội dòng này trên toàn nước Việt Nam.
CÔNG ĐỒNG PHỐ HIẾN (DINH HIẾN) 1670
Trong hoàn cảnh cấm đạo, thiếu nhân sự, Đức cha Lambert de la Motte đã triệu tập Công đồng Giáo phận Đàng Ngoài lần đầu tiên (cũng là công đồng đầu tiên của Giáo Hội Việt Nam) tại ngôi đình làng ở Phố Hiến.
Ngày 14/02/1670, nhân dịp Mùa Chay thánh, Công đồng chính thức khai mạc dưới quyền chủ tọa của Đức cha Lambert. Các thành viên tham dự gồm: cha Chính giáo phận Deydier, hai thừa sai là Bourges và Bouchard cùng 9 linh mục đầu tiên của đàng ngoài, gồm hai cha Benedicto Hiền, Gioan Huệ (thụ phong tháng 6-1668 tại Thái Lan) và bảy vị được truyền chức tại Phố Hiến (Mattheu Mát, Simon Kiên, Antôn Quế, Philipphê Nhân, Giacôbê Chiêu, Leô Trung và Benedictô Trí).
Đặc biệt trong số bảy linh mục này có một người Thái Bình là cha Leô Trung (có tài liệu viết là Leo Trụ 1624 – 1692, là người Đông Quan (nay là Đông Hưng), phủ Thái Bình, trấn Sơn Nam Hạ, linh mục năm 46 tuổi. Cha phục vụ tại nhiều tại Nghệ An, Hải Dương và từng phụ trách xứ Kẻ Vân (nay là Đan Tràng), và một họ đạo ở Phố Hiến, nơi ngày qua đời ngày 23 tháng 11 năm 1692, thọ 68 tuổi.
Cha chính Deydier sau là giám mục tiên khởi địa phận Đông Đàng Ngài cũng ở Phố Hiến cho đến khi về với Chúa năm 1693, có thể nói tòa giám mục của ngài tại Phố Hiến.
Ngoài ra theo lời mời của giám mục Pallu, các thừa sai đầu tiên của Dòng Đa Minh là cha Juan de Santa Cruz (Thập) và cha Juan de Arjona (Cao) đã đến Phố Hiến năm 1676 và ở lại đây trong sáu tháng.
Công đồng nhằm phổ biến các nghị quyết của Tòa Thánh về trách nhiệm và quyền hành của các vị Đại diện Tông tòa, tổ chức mọi sinh hoạt trong địa phận. Đồng thời, các ngài ra Huấn thị gồm 33 điều khoản (phần lớn giống như Huấn thị của Công đồng Juthia (Thái Lan) năm 1664, chỉ sửa đổi những gì cần thiết cho phù hợp với hoàn cảnh và phong tục của Giáo Hội địa phương). Huấn thị này sau đó đã được Đức Thánh cha Clemente X châu phê ngày 23/12/1673.
Nội dung chính của Công đồng Phố Hiến bàn về các vấn đề:
+ Chính thức nhận thánh Giuse làm bổn mạng cho Giáo Hội Việt Nam.
+ Chia Địa phận Đàng Ngoài thành 9 giáo hạt và các giáo xứ.
+ Ấn định việc đào tạo chủng sinh qua tổ chức Nhà Đức Chúa Trời.
+ Các nhà thờ phải công bố sắc chỉ của Tông tòa về quyền đại diện. Các linh mục phải nhận quyền từ vị Giám mục Đại diện Tông tòa mới được giảng đạo.
Như vậy, trong thế kỷ XVII, trên mảnh đất Thái Bình, Tin Mừng được lan truyền đến các địa chỉ gắn liền với chữ kẻ đó là : từ Kẻ Bái (Bồ Ngọc), đến Kẻ Ổn (Lai Ổn), Kẻ Hệ (Ninh Cù), Kẻ Bầu (Tiên Chu), Kẻ Diền (Duyên Lãng), Kẻ Vân (Đan Tràng), Kẻ Rèm (An Lập) và Kẻ Mèn (Trung Đồng), chưa kể đến cơ sở dòng Tên tại Cao Mại.
2. Giáo phận Thái Bình từ 1679 đến 1848
Theo dòng thời gian, số các thừa sai ngày một gia tăng, số các xứ họ được thành lập ngày càng nhiều. Nhu cầu mục vụ cũng vì lẽ ấy mà trở nên cấp thiết hơn. Năm 1679, theo lời thỉnh cầu của Đức cha François Pallu, Tòa Thánh đã tách Giáo phận Đàng Ngoài thành hai: Giáo phận Đông Đàng Ngoài, đặt thừa sai Deydier làm Giám mục Đại diện Tông tòa, và Giáo phận Tây Đàng Ngoài do thừa sai Jacques de Bourges làm Giám mục Đại diện Tông tòa. Phần đất thuộc Giáo phận Thái Bình ngày nay nằm trong Giáo phận Đông Đàng Ngoài (1679 - 1848).
Trong thời gian đó, Phố Hiến trở thành Tòa Giám Mục và là nơi cư ngụ của các thừa sai, còn vùng đất Thái Bình rộng lớn bây giờ khi đó thuộc về hạt Lai Ổn.
Cũng trong giai đoạn này, nhiều giáo xứ đã được thành lập: Ngọc Đồng (1698), Cao Xá (1699), Cao Mại (1706), Sa Cát (1722), Tiên Chu (1730), Cổ Việt (1793) … Nói chung, công cuộc truyền giáo ở khu vực thuộc Giáo phận Thái Bình ngày nay tiến triển tương đối thuận lợi vì số thừa sai ngày một nhiều.
Trong thời gian Tòa Thánh trao quyền điều hành Giáo phận Đông Đàng Ngoài cho các cha dòng Đa Minh Tây Ban Nha, có hai vị tử đạo tiên khởi của dòng Đa Minh hoạt động và bị bắt tại Thái Bình: Thánh linh mục Castaneda Gia (Tây Ban Nha) phục vụ tại Lai Ổn và Kẻ Diền (Duyên Lãng); thánh linh mục Vinh Sơn Phạm Hiếu Liêm (Bùi Chu) phục vụ tại Lai Ổn và Lương Đống. Hai vị bị điệu về Thăng Long, và tại đây Hội đồng Tứ giáo đã diễn ra. Bằng những lời lẽ khôn ngoan, hai vị đã biện hộ cho đức tin Công Giáo và sau đó hai vị đã dùng chính mạng sống mình để minh chứng cho niềm tin.
Dấu ấn đậm nét của cuộc tử đạo tiên khởi như báo hiệu một giai đoạn khó khăn mà Giáo Hội Việt Nam sắp phải gánh chịu.
3. Giáo phận Thái Bình từ 1848 - 1936
Năm 1848, Tòa Thánh đã chia Giáo phận Đông Đàng Ngoài thành Giáo phận Đông và Giáo phận Trung. Giáo phận Trung bao gồm phần đất Giáo phận Bùi Chu và Giáo phận Thái Bình ngày nay. Trong khoảng thời gian này, Giáo phận Trung (năm 1924 đổi tên thành Bùi Chu) trải qua hai thời kỳ rõ rệt:
Từ năm 1848 tới hòa ước Nhâm Tuất (5/6/1862), đạo Công Giáo bị bách hại dữ dội. Trong những năm đầu triều vua Tự Đức (1847 - 1883), chỉ dụ chống đạo không được áp dụng triệt để tại vùng Nam Định - Hưng Yên, vì tổng đốc Nguyễn Đình Tân ít nhiều có thiện cảm với đạo. Tuy nhiên, khi Pháp đánh phá Đà Nẵng, tình hình trở nên căng thẳng, tổng đốc Nguyễn Đình Tân muốn lập công với nhà vua nên các cuộc truy nã diễn ra thường xuyên, đặc biệt ở vùng Bùi Chu, mà đối tượng trước tiên là các đạo trưởng và các ông trùm. Trên phần đất thuộc Giáo phận Thái Bình ngày nay, ngoài những cuộc bắt bớ nhỏ lẻ, chỉ một lần diễn ra với quy mô lớn ở Ngọc Đường (Ngọc Đồng). Năm ngàn lính triều đình Huế bao vây xứ đạo, bắt linh mục quản xứ Đa Minh Đặng Văn Huấn và nhiều giáo hữu khác đi hành quyết. Dưới triều vua Tự Đức, vùng Thái Bình - Hưng Yên có nhiều người đã đổ máu đào vì Đức tin, trong đó có 10 vị tử đạo đã được tôn phong lên hàng hiển thánh.
Hòa ước Nhâm Tuất (1862) giữa vua Tự Đức và Pháp đã mở đường cho đạo Công Giáo được hoạt động công khai. Tuy nhiên, một số nơi do tin tức thời bấy giờ còn hạn chế nên vẫn còn những khó khăn nhất định. Đạo Công Giáo chỉ thực sự được tự do từ sau hòa ước Giáp Thân (1884).
Nhìn chung, dưới thời bảo hộ của Pháp (từ hòa ước 1884 tới 1945), đạo Công Giáo ở vùng Thái Bình – Hưng Yên phát triển mạnh mẽ và đầy sức sống. Trong giai đoạn này, nhiều giáo xứ nằm trong giáo phận Thái Bình ngày nay được thành lập: Thân Thượng (1888), Lương Điền (1893), Thượng Phúc (1900), Quỳnh Lang (1901), Đông Thành (1903), Đồng Quan (1911), Xuân Hòa (1914)…
Ngày 21/03/1890, tỉnh Thái Bình được thành lập, lấy phủ lỵ của phủ Thái Bình làm Tỉnh lỵ. Khi đó, phủ Thái Bình có Giáo họ Kỳ Bá, thuộc xứ Sa Cát; gọi là Giáo họ nhưng thật ra số tín hữu rất ít. Kỳ Bá hay Kỳ Bố - cũng gọi là Bố Hải Khẩu - có tên gọi là Bo (như bến đò Bo, cầu Bo). Cha Phêrô Munagorri Trung - cha xứ Sa Cát - thấy được viễn tượng họ đạo Kỳ Bá sẽ là nơi phù hợp cho việc xây dựng Toà Giám mục. Vì thế, năm 1906, cha Trung với sự trợ giúp đắc lực của cha Andre Kiên (kiến trúc sư Tây Ban Nha) đã xây cất nhà thờ tỉnh lị Thái Bình theo kiến trúc Gothic. Sau khi làm Giám mục Giáo phận Trung, Đức cha Phêrô Munagorri Trung đã thành lập Giáo xứ Thái Bình (17/08/1908), gồm 11 họ lẻ cắt từ xứ Cổ Việt và xứ Sa Cát, với hơn 2.000 tín hữu và nhận Thánh Tâm Chúa Giêsu làm quan thầy và cha Tràng An (Marcos Gispert) được bổ nhiệm làm cha chính xứ đầu tiên.
Sau mấy chục năm coi sóc, Đức cha Phêrô Munagorri Trung đã đưa giáo phận đến thời cực thịnh. Năm 1934, Giáo phận Trung trở thành quá lớn đối với một chủ chăn, Đức Thánh Cha Piô XI và Bề trên Giáo phận có ý định chia Giáo phận Bùi Chu làm hai, đồng thời chuyển dần quyền lãnh đạo Giáo phận cho hàng giáo sĩ bản quốc. Ngày 12/03/1935, Đức Thánh Cha đã bổ nhiệm cha Đa Minh Hồ Ngọc Cẩn làm Giám mục phó Bùi Chu với quyền kế vị. Như vậy, Giáo phận Bùi Chu là giáo phận thứ hai chuyển giao cho hàng giáo sĩ Việt Nam (sau Giáo phận Phát Diệm).
4. Thành lập Giáo phận Thái Bình
Ngày 09 tháng 3 năm 1936 với Sắc chỉ Praecipuas inter Apostolicas của Đức Giáo Hoàng Piô XI, Giáo phận Thái Bình chính thức được thành lập (tách khỏi Giáo phận Bùi Chu), bao gồm phần đất của hai tỉnh Thái Bình và Hưng Yên, với diện tích 2.207km2. Đây là một vùng đồng bằng trải rộng, đất đai màu mỡ, nuôi sống trên 3 triệu dân, chạy dài từ bãi biển Đồng Châu (phía Đông) tới nương khoai An Vĩ (phía Tây).
Như vậy, Giáo phận Thái Bình được thành lập muộn nhất trong Giáo tỉnh Hà Nội. Tuy nhỏ bé về địa lý, non trẻ về lịch sử nhưng Giáo phận có chung bề dày lịch sử và sẻ chia những biến cố thăng trầm của Giáo phận mẹ Bùi Chu, Giáo phận Đông Đàng Ngoài và Giáo phận Đàng Ngoài.
Sau khi thành lập, Giáo phận Thái Bình ngày một thăng tiến về mọi mặt. Tính đến năm 1939, ngoài Đức cha Gioan Casado Thuận, Giáo phận có: 25 linh mục Dòng Đa Minh (người Tây Ban Nha), 57 linh mục người Việt Nam, 333 thầy giảng, 12 sư huynh Lasan, 10 nữ tu Dòng Thánh Phaolô, 280 nữ tu Dòng ba Đa Minh, 140.000 tín hữu trong 50 giáo xứ và 552 họ lẻ (Theo thống kê năm 1939 của Les Missions Catholiques en Indochine).
5. Giáo phận Thái Bình từ 1936 - 1954
Giáo phận Thái Bình đã được thành lập, nhưng chưa có Giám mục cai quản. Ngày 17/05/1936, linh mục thừa sai Gioan Casado Thuận, bấy giờ đang giữ chức vụ quản lý Giáo phận Bùi Chu từ năm 1926 và kiêm nhiệm chức vụ cha quản hạt Khoái Đồng, Nam Định, được đặt làm cha bề trên cai quản Giáo phận Thái Bình.
5.1 - Giáo phận Thái Bình dưới thời Đức cha Gioan Casado Thuận (1936-1941)
Đức cha Gioan Casado Thuận (Jean Casado Obispo) sinh ngày 27/12/1886 tại Fuentecen, tỉnh Burgos, phía Bắc nước Tây Ban Nha. Ngày 07/12/1906, ngài gia nhập dòng Đa Minh tại tu viện Ocana. Lúc còn là thầy sáu, ngày 20/01/1911, thầy Casado tình nguyện sang Việt Nam để truyền giáo và tới Giáo phận Trung. Ngày 28/01/1911, thầy Casado được thụ phong linh mục tại Phú Nhai.
Từ 1924 đến 1926 ngài làm thư ký Tòa Giám mục Bùi Chu.
Từ 1926 đến 1936 ngài và tổng quản lý Giáo phận Bùi Chu.
Ngày 15/6/1936, cha Gioan Casado Thuận được Tòa Thánh ban sắc phong Giám mục hiệu tòa Barata, Giám mục tông tòa đầu tiên Giáo phận Thái Bình. Ngày 02/8/1936 tại nhà thờ Chính tòa Thái Bình, lễ tấn phong Giám mục được tổ chức long trọng, chủ phong là Đức cha Gómez Lễ, OP (Giám mục Giáo phận Hải Phòng, bạn học cùng lớp với ngài). Câu khẩu hiệu cho đời giám mục của ngài là: Hòa bình là thành quả của sự công chính (Opus justitiae pax).
Vì Giáo phận chưa có Toà giám mục, chủng viện và các cơ sở cần thiết, nên sau khi được tấn phong Giám mục, ngài bắt tay ngay vào việc xây dựng cơ sở cho giáo phận. Đức cha là một nhà truyền giáo nhiệt thành, là một chủ chăn tài ba có nhiều kinh nghiệm về xây dựng (trong các nhà thờ ngài chủ trì xây dựng có các nhà thờ Thức Hóa, Nam Định). Chỉ sau một năm (9/1937), ngài đã khánh thành cơ sở đầu tiên là trường Tiểu Chủng viện Mỹ Đức. Tiểu Chủng viện gồm một tòa nhà ba tầng cao 14 mét, rộng 13 mét, dài 90 mét - nằm bên tả ngạn sông Trà Lý, thuộc xã Cát Đàm, kề cận là nhà ăn, khu nhà hậu cần, chăn nuôi. Đây là nơi đào tạo nhân sự cho Giáo phận, có năm lên đến 140 tiểu chủng sinh.
Đức cha cũng để ý đến việc bác ái, quan tâm đến các trẻ em bị bỏ rơi, nên ngài đã xây dựng một nhà Dục Anh cấp giáo phận tại Giáo xứ An Lập, trao cho các chị em “nhà phước” chăm sóc.
Cùng thời gian ấy, ngài xây dựng Toà Giám Mục - một tòa nhà ba tầng ngay cạnh nhà thờ Chính tòa - trên một vị trí nhìn bao quát cả thị xã Thái Bình. Năm 1940, ngài cho tu sửa nối dài phần đầu nhà thờ Chính Tòa, đồng thời nối dài phần đầu nhà chủng viện để làm nhà nguyện (1941).
Trên phần đất giáo phận thuộc tỉnh Hưng Yên, Đức cha cho xây dựng một trường thầy giảng, tòa nhà kiến trúc theo lối Tây phương với ba tầng lầu, ngay tại tỉnh lỵ, làm nơi đào tạo các thầy giảng, những trợ tá cho các cha xứ. Ngôi nhà này nằm trong quần thể Phố Hiến xưa (hiện do nhà nước quản lý).
Đức cha đã hoàn thành những cơ sở này trong một thời gian ngắn kỷ lục. Nội trong ba năm, ngài đã xây dựng cơ sở vật chất hầu như đầy đủ cho giáo phận. Ngoài ra, Đức cha còn khuyến khích tu sửa, xây dựng nhiều thánh đường, các nhà xứ, nhà phước, trường học nơi các giáo xứ.
Về phương diện tinh thần, Đức cha chú ý đến việc đào tạo nhân tài cho Giáo phận bằng việc gửi đại chủng sinh đi học xa, thành lập nhiều hội đoàn và một số giáo xứ mới. Số tín hữu tăng nhanh, trung bình mỗi năm có thêm khoảng ba nghìn giáo hữu mới. Số linh mục mỗi năm cũng tăng thêm từ 3 đến 5 vị. Tu sĩ nam nữ cũng ngày càng thêm đông số.
Có thể nói, Giáo phận Thái Bình phát triển mạnh ngay từ ngày thành lập là nhờ sự lãnh đạo tài đức, khôn ngoan, nhiệt thành của Đức cha Gioan Thuận và những cộng sự viên của ngài.
Ngày 26/4/1939, Đức cha Gioan Casado Thuận lên đường đi Rôma để triều yết Đức Thánh Cha Piô XII mới đăng quang. Ngài trình bày về hiện tình giáo phận mà ngài đang đảm nhiệm, xin Đức Thánh Cha chúc lành và nâng đỡ cho giáo phận còn non trẻ. Nhân tiện, Đức cha ghé Tây Ban Nha thăm lại quê hương, đồng thời quyên tiền kiến thiết xứ sở truyền giáo, nơi ngài đang trách nhiệm.
Thế chiến thứ II bùng nổ, Đức cha Gioan không có phương tiện trở về giáo phận, ngài phải lưu lại thủ đô Madrid. Ngày 22/01/1941, một cơn bạo bệnh bất ngờ đã đưa Đức cha Gioan Casado về với Chúa, bỏ lại Giáo phận Thái Bình thân yêu mà ngài mới kiến tạo vững chắc cả về tinh thần cũng như vật chất.
Trước khi qua đời, bằng một chúc thư, Đức cha Gioan Casado Thuận đã trao quyền điều hành Giáo phận cho thừa sai Jose Sedano Thái, lúc đó đang là cha xứ Cao Mộc. Cha Jose Sedano Thái quê ở tỉnh Burgos, Tây Ban Nha, là linh mục dòng Đa Minh. Ngài sang Việt Nam năm 1909. Sau hai chín năm coi sóc xứ Cao Mộc, ngài được Đức cha Gioan Casado Thuận chọn làm Giám quản Giáo phận Thái Bình (từ ngày 25/01/1941 cho đến khi có vị Giám mục mới).
Là một vị chủ chăn nhân từ, phúc hậu, hăng hái trong việc truyền giáo, cha chính Thái đã tận tâm điều hành mọi sinh hoạt trong giáo phận một cách xuôi chảy trong thời gian một năm giữ chức vụ nhiếp chính. Tháng 2 năm 1941, ngài bị một toán đặc công của tổ chức bí mật tống tiền và bắt đi mất tích. Mấy ngày sau giáo dân đi tìm kiếm, thấy thi thể ngài trên sông Trà Lý gần bến Hộ. Giáo dân đưa thi hài ngài về an táng trong khu vực nhà thờ Cát Đàm.
5.2 - Giáo phận Thái Bình dưới thời Đức cha Santos Ubierna Ninh (1942-1954)
Ngày 24/02/1942, cha Santos Ubierna Ninh (thừa sai Tây Ban Nha, phó giám đốc kiêm giáo sư và quản lý Giáo hoàng chủng viện Thánh Alberto Nam Định), được Tòa Thánh ban Sắc phong Giám mục kế vị Đức cha Gioan Casado Thuận. Đức tân Giám mục sinh ngày 01/11/1907 tại làng Huermeces, tỉnh Burgensis, nước Tây Ban Nha. Ngài gia nhập dòng Đa Minh ngày 29/6/1923, thụ phong linh mục ngày 20/12/1930. Năm 1932, ngài sang truyền giáo tại Việt Nam và được bổ nhiệm làm giáo sư chủng viện Thánh Alberto Nam Định. Ngày 29/9/1942, tại Thái Bình, ngài được tấn phong Giám mục hiệu toà Lamdia. Khẩu hiệu giám mục được ngài chọn: Đổ máu hòa dâng với hy sinh lễ tế (Immolor supra sacrificium).
Trong suốt thời gian Đức cha Ubierna Ninh lãnh đạo Giáo phận, đất nước luôn ở trong tình trạng chiến tranh, Giáo phận Thái Bình cũng lâm cảnh đau thương của kháng chiến chống Nhật, chống Pháp và cả chống đói. Vì thế, Đức cha chỉ có thể duy trì các cơ sở và giữ vững tinh thần đức tin cho cộng đoàn dân Chúa trong giáo phận qua các hội đoàn đã có sẵn. Về văn hóa, ngài đã lập Nhà In Đa Minh Thái Bình để in ấn những tài liệu, sách báo Công giáo cho Giáo phận. Tuy ngài lãnh đạo giáo phận trong thời khó khăn nhưng cũng mang lại nhiều thành quả tốt đẹp.
Theo thống kê đầu năm 1954, Giáo phận Thái Bình có: 21 linh mục Dòng Đa Minh, 64 linh mục triều, 35 đại chủng sinh, 160 ngàn giáo dân. Tổng số dân cư trên phần đất Giáo phận là 1,5 triệu (chiếm tỉ lệ 10,75%). Ngài còn lập thêm nhiều xứ mới, nâng tổng số giáo xứ trong Giáo phận lên con số 63.
Sau hiệp định Genève, Đức cha di cư vào miền Nam. Thời gian này, ngài đã về Tây Ban Nha thăm lại cố hương. Khi trở lại Sài Gòn, Đức cha luôn thao thức về lại giáo phận trước ngày 29 hoặc 30 tháng 5 năm 1955 (là thời hạn chót cho việc tập kết, theo hiệp định đình chiến Genève). Ngày 15/4/1955, Đức cha đã an nghỉ trong Chúa, khi ngài mới có 48 tuổi và 13 năm chăn dắt đoàn chiên Giáo phận Thái Bình.
6. Giáo phận Thái Bình từ 1954 - 1990
Có thể nói rằng quãng thời gian từ 1954 - 1990 là giai đoạn cầu nối và khó khăn nhất của lịch sử Giáo phận: cầu nối vì là giai đoạn chuyển mình từ chế độ xã hội “đóng” sang “mở”; khó khăn vì là giai đoạn khủng hoảng nhân sự và bắt đầu xây dựng lại. Biến cố di cư năm 1954 làm Giáo phận trở nên tan hoang: hơn một nửa giáo dân, và hầu hết các linh mục, tu sĩ cũng rời giáo phận ra đi. Các giáo xứ trở nên hoang vắng, nửa số nhà thờ phải đóng cửa, nhiều cơ sở nhà đất, ruộng vườn bỏ hoang và dần bị mất, bị chiếm hay trưng dụng cho các mục đích xã hội.
Trong khi đó, cha Đa Minh Đinh Đức Trụ, nguyên linh hướng Chủng viện Mỹ Đức, đang coi xứ Nguyệt Lãng, tình nguyện ở lại cùng với một số cha khác. Cha đã được Đức cha Ninh đặt làm bề trên Tổng quản Giáo phận từ ngày 30/6/1954.
Dưới quyền cha Tổng quản Đa Minh, Giáo phận chỉ còn 13 linh mục (phần lớn đã cao tuổi), 23 chủng sinh, 26 dì phước dòng ba Đa Minh và khoảng 80.000 giáo dân.
6.1 - Giáo phận Thái Bình dưới thời Đức cha Đa Minh Maria Đinh Đức Trụ (1954-1982)
Sau gần 6 năm làm giám quản giáo phận, ngày 05/3/1960, Tòa Thánh ban sắc phong cha Đa Minh Đinh Đức Trụ lên chức Giám mục hiệu tòa Catapas, làm Giám mục tông tòa Giáo phận Thái Bình.
Đức cha Đa Minh Maria Đinh Đức Trụ chào đời ngày 15/10/1909 tại Phú Nhai. Năm 16 tuổi ngài theo học Latinh tại Tiểu chủng viện Ninh Cường. Mùa thu năm 1931, ngài theo học khóa Triết tại Đại chủng viện thánh Alberto Nam Định. Mùa hè năm 1933, ngài thực tập tại Đông Chú và Đồng Lạc thuộc xứ Đồng Quan. Mùa thu 1934, cha trở lại Đại chủng viện tiếp tục học Thần học bốn năm. Mãn khóa Thần học, ngài được thụ phong linh mục ngày 23/5/1938.
Vào ngày lễ Truyền Tin (25/3/1960), cha Đa Minh Đinh Đức Trụ đã được Đức cha Giuse Trịnh Như Khuê tấn phong Giám mục tại Hà Nội với khẩu hiệu Giám mục: “Lính tốt của Chúa Kitô – Bonus Menes Christi”.
Ngày 24/11/1960, Tòa Thánh thiết lập Hàng Giáo Phẩm Việt Nam, Đức cha Đa Minh Đinh Đức Trụ trở thành Giám mục Chính tòa đầu tiên của Giáo phận Thái Bình.
Khi còn làm Giám quản Giáo phận, một trong những ưu tư hàng đầu của của ngài là làm thế nào để bổ sung thêm nhân sự cho Giáo phận còn thiếu nhiều do hậu quả cuộc di cư 1954 để lại. Do vậy, đầu năm 1956, cha Đa Minh Đinh Đức Trụ khai giảng trường Mỹ Đức, tiếp nhận tất cả các con em trong Giáo phận về học. Niên khoá đầu tiên 1956-1957, con số học sinh đã lên tới 350.
Ngày 16/7/1960, ngài đã truyền chức linh mục cho bốn thầy đã được hàm thụ từ trước: Giuse Đinh Bỉnh (1922), Giuse Bùi Văn Cẩm (1931), Gioakim Trần Đức Uyên (1901), Giuse Vũ Văn Vân (1897). Sau đó, ngài tiếp tục đào tạo và truyền chức cho nhiều thầy nữa.
Khi không thể mở trường công khai, ngài âm thầm dạy hàm thụ các tiến chức linh mục. Thành quả ấy đã đến, năm 1965, bốn thầy trong số các tiểu chủng sinh năm nào đã được tiến chức linh mục: thầy Giuse Nguyễn Thành Hiến, thầy Đa Minh Trịnh Đức Tính, thầy Gieronimo Nguyễn Phúc Hạnh và thầy Đa Minh Phạm Quang Trung. Ngày 29/01/1968, Giáo phận có thêm hai tân linh mục: cha Thomas Trần Trung Hà và cha Phêrô Nguyễn Kiêm Toàn. Đặc biệt, chủng viện Mỹ Đức được mở cửa trở lại và đào tạo khóa 1972 – 1977 làm số linh mục trong Giáo phận được thêm đông số. Như vậy, vấn đề nhân sự đã phần nào được cải thiện sau biến cố Nam tiến 1954.
Tuy nhiên, do bối cảnh xã hội khó khăn, việc mục vụ và điều hành Giáo phận còn gặp nhiều trở ngại. Năm 1967, một nhóm người đã đột nhập Văn Khố Tòa Giám Mục và lấy đi hoặc đốt hết các giấy tờ - ngay cả Sắc lệnh thành lập Giáo phận cũng không còn; một số linh mục phải chịu tù đày như cha Giuse Nguyễn Thành Hiến, Gieronimo Nguyễn Phúc Hạnh… hay chịu quản thúc như cha Đa Minh Phạm Quang Trung. Các cha được coi xứ cũng gặp nhiều khó khăn.
Trong hoàn cảnh đó, Đức cha không thể có những chuyến viếng thăm mục vụ công khai, ngài đã giả dạng người khiêng lợn đi bán, đóng vai những người làm phu, thậm chí nhập vai của một người ăn xin… để tới thăm đoàn chiên. Người đời còn lưu truyền nhiều giai thoại cảm động về ngài.
Sau một thời gian dài phục vụ Giáo phận, ngày 07/6/1982, Đức cha Đa Minh Đinh Đức Trụ đã an nghỉ trong Chúa sau 73 năm trên trần thế với 44 năm linh mục và 22 năm Giám mục chính tòa.
Ngài là vị chủ chăn đã dẫn dắt giáo đoàn Thái Bình qua những giai đoạn khó khăn nhất của lịch sử giáo phận. Tất cả những ai đã từng sống, gặp gỡ với ngài đều nhận thấy những đức tính cao đẹp của một vị chủ chăn nơi ngài: đạo đức, hy sinh trong cuộc sống; khôn ngoan, sáng suốt trong lãnh đạo; hiền từ, bình dân trong giao tiếp; hăng say, quên mình trong phục vụ; can đảm, cương quyết trong trách nhiệm.
6.2 - Giáo phận Thái Bình dưới thời Đức cha Giuse Maria Đinh Bỉnh (1982-1989)
Vị Giám mục kế nhiệm Đức cha Đa Minh Đinh Đức Trụ là Đức cha Giuse Đinh Bỉnh.
Đức cha Giuse Đinh Bỉnh sinh ngày 02/5/1922 tại Phú Nhai, Giáo phận Trung. Học xong tiểu học, ngài gia nhập Tiểu chủng viện Ninh Cường (Bùi Chu), rồi Mỹ Đức (Thái Bình). Ngài học Thần học và Lý đoán tại Đại chủng viện thánh Alberto Nam Định. Ngày 16/7/1960 (lễ Đức Mẹ núi Camêlô), Đức cha Đa Minh Đinh Đức Trụ đã truyền chức linh mục cho ngài. Từ năm 1972-1977, ngài là giám đốc Chủng viện Mỹ Đức và coi sóc các Giáo xứ Sa Cát, Phương Xá v.v. Ngài được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II ban sắc phong giám mục ngày 30/10/1979.
Ngày 08/12/1979, tại nhà thờ Chính tòa Thái Bình, Đức Hồng Y Giuse Trịnh Văn Căn tấn phong Giám mục cho ngài. Nhận thức rõ nhiệm vụ khó khăn của một chủ chăn, vị tân Giám mục đã muốn phó thác cuộc đời và Giáo phận trong tay Đức Mẹ. Khẩu hiệu Giám mục của ngài là “Này là Mẹ con” (Ecce Mater tua).
Nối tiếp công việc của vị tiền nhiệm, Đức cha Giuse Đinh Bỉnh luôn ưu tiên cho việc đào tạo linh mục. Đồng thời, ngài tận tâm tận lực chăm sóc cho đời sống đức tin của giáo phận. Là một chủ chăn hiền lành, đơn sơ, lấy đức Ái làm phương châm cuộc sống, giáo dân đã gọi ngài bằng biệt danh “Hòa Bình”.
Đang mải miết lo cho Giáo phận, vào lúc 4 giờ sáng ngày 14/3/1989, ngài đã an nghỉ trong Chúa sau cơn nhồi máu cơ tim, hưởng thọ 67 tuổi, với 29 năm linh mục và 10 năm Giám mục.
Ngày 14/03/1989, Tòa Thánh bổ nhiệm Đức Hồng y Giuse Trịnh Văn Căn làm Giám quản Giáo phận Thái Bình.
Hơn một năm làm Giám quản, Đức Hồng y Giuse chú trọng đến đời sống đức tin của Giáo phận, tổ chức những tuần tĩnh tâm cho các linh mục, khôi phục hội Dâng Hoa tháng Năm kính Đức Mẹ. Ngài cũng lưu tâm đến việc trùng tu các nhà thờ trong giáo phận.
7. Giáo phận Thái Bình từ 1990 tới nay
Quãng thời gian từ 1990 tới nay là giai đoạn chuyển mình với những đổi thay to lớn của xã hội cũng như Giáo Hội trong đó có Giáo phận Thái Bình. Ngày 03/12/1990, Giáo phận Thái Bình vui mừng được tin Tòa Thánh bổ nhiệm Đức cha Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Sang - Giám mục phụ tá Tổng giáo phận Hà Nội - làm Giám mục chính tòa Thái Bình. Từ đây, Giáo phận bước sang một trang sử mới, trang sử của “hòa bình” đúng nghĩa với tên gọi của mảnh đất này.
Copyright © 2021 Bản quyền thuộc về Ban Mục Vụ Giới Trẻ & TNTT Thái Bình
Đang online: 99 | Tổng lượt truy cập: 3,212,531