Hoạt cảnh Giáng Sinh năm 2020

  • 28/11/2021
  • Chủ đề: "ĐỒNG HÀNH VỚI NGƯỜI TRẺ TRONG ĐỜI SỐNG GIA ĐÌNH"

    HOẠT CẢNH GIÁNG SINH 2020

    Chủ đề: ĐỒNG HÀNH VỚI NGƯỜI TRẺ TRONG ĐỜI SỐNG GIA ĐÌNH

    —{–

     

    Kính thưa cộng đoàn,

    Một mùa Noel nữa lại về trên quê hương Việt Nam yêu dấu và trên toàn thể địa cầu. Khắp đó đây, từ thành thị cho tới nông thôn, nhà nhà, người người đang nô nức trang hoàng hang đá, cây thông… để chào đón Con Thiên Chúa Giáng trần. Những ngôi thánh đường đang dần được khoác lên những ánh đèn lung linh muôn màu muôn sắc. Một không khí Giáng Sinh đang bao trùm toàn thể nhân loại.

    “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta”

    Lời khẳng định của Thánh Tông đồ Gioan nhắc chúng ta nhớ đến một biến cố “vô tiền khoáng hậu” – đó là sự kiện Thiên Chúa – Đấng quyền năng và đầy uy lực – lại xuất hiện dưới hình dáng của một trẻ thơ, bé nhỏ, yếu ớt… đó chính là Hài Nhi Giê-su – Ngài là Con Một yêu dấu của Thiên Chúa và Ngài chính là Thiên Chúa. Ngài xuống thế làm người để muốn nên giống anh em mình mọi đàng, ngoài trừ tội lỗi. Không những thế, khi lựa chọn được sinh ra trong một mái gia đình, Chúa Giê-su còn muốn thánh hóa đời sống gia đình và mang lại cho đời sống gia đình giá trị đích thực của nó, đó là sự ĐƠN NHẤT và BẤT KHẢ PHÂN LY.

    Hôn nhân, trong ý định ngàn đời của Thiên Chúa, không đơn thuần chỉ là sự kết hợp giữa người nam và người nữ, nhưng trước tiên và trên hết, hôn nhân gia đình là quà tặng của trời cao. Tự ban đầu, Đấng Tạo Hóa là Thiên Chúa quyền năng đã muốn cho người nam và người nữ gắn bó với nhau, để họ bổ túc cho nhau, yêu thương nhau, sinh sản, dạy dỗ con cái, để cùng nhau sống trong bình an và hạnh phúc.

    Ý thức rằng: Gia đình là nơi người trẻ tập sống tương quan căn bản với Thiên Chúa trong cầu nguyện, tương quan hiếu thảo với cha mẹ, và tương quan huynh đệ với anh chị em trong nhà. Gia đình cũng là nơi người trẻ học tập những đức tính nhân bản như trung thực, quảng đại, phục vụ, tinh thần trách nhiệm. Nên tiếp nối chương trình mục vụ của năm “Đồng hành với người trẻ, hướng tới sự trưởng thành toàn diện”, trong chủ đề mục vụ của năm 2021 tới đây, HĐGM Việt Nam mời gọi cộng đoàn dân Chúa tiếp tục "Đồng hành với người trẻ trong đời sống gia đình".

    Qua hoạt cảnh Giáng Sinh này, xin kính mời cộng đoàn, cách riêng là các gia đình trẻ, cùng nhìn vào đời sống gia đình của các nhân vật trong Thánh Kinh, để rút ra bài học cho chính đời sống gia đình của mình. Đồng thời, mỗi người hãy cảm nghiệm niềm vui, niềm hạnh phúc và giá trị bất khả thay thế của đời sống hôn nhân gia đình, để biết nâng niu, trân trọng, gìn giữ và làm cho đời sống hôn nhân ngày một triển nở, hầu có thể giúp nhau nên thánh trong ơn gọi gia đình.

    HOẠT CẢNH 1: THIÊN CHÚA TẠO DỰNG

    Lời dẫn: Từ thuở ban đầu, khi trái đất còn chưa thành hình, khi vạn vật còn hoang sơ, trống rỗng, Thiên Chúa đã dùng Lời quyền năng của Ngài mà dựng nên muôn loài muôn vật. Ngài dựng nên ánh sáng và bóng tối; dựng nên biển cả và đất liền. Thiên Chúa phán: "Đất phải sinh thảo mộc xanh tươi, cỏ mang hạt giống, và cây trên mặt đất có trái, ra trái tuỳ theo loại, trong có hạt giống." Liền có như vậy. Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp.

    Thiên Chúa phán: "Phải có những vầng sáng trên vòm trời, để phân rẽ ngày với đêm, để làm dấu chỉ xác định các đại lễ, ngày và năm. Đó sẽ là những vầng sáng trên vòm trời để chiếu soi mặt đất." Liền có như vậy.

    Thiên Chúa làm ra hai vầng sáng lớn: vầng sáng lớn hơn để điều khiển ngày, vầng sáng nhỏ hơn để điều khiển đêm; Người cũng làm ra các ngôi sao. Thiên Chúa đặt các vầng sáng trên vòm trời để chiếu soi mặt đất, để điều khiển ngày và đêm, và để phân rẽ ánh sáng với bóng tối.

    Thiên Chúa phán: "Nước phải sinh ra đầy dẫy những sinh vật lúc nhúc, và loài chim phải bay lượn trên mặt đất, dưới vòm trời." Thiên Chúa sáng tạo các thuỷ quái khổng lồ, cùng mọi sinh vật vẫy vùng lúc nhúc dưới nước tuỳ theo loại, và mọi giống chim bay tuỳ theo loại. Thiên Chúa chúc phúc cho chúng rằng: "Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy biển; và chim phải sinh sản cho nhiều trên mặt đất."

    Sau khi đã trang điểm cho bầu trời và trái đất cùng muôn loài trong đó, Thiên Chúa phán: "Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta, để con người làm bá chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất."

    Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ. Thiên Chúa ban phúc lành cho họ, và Thiên Chúa phán với họ: "Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất, và thống trị mặt đất. Hãy làm bá chủ cá biển, chim trời, và mọi giống vật bò trên mặt đất." "Đây Ta ban cho các ngươi mọi thứ cỏ mang hạt giống trên khắp mặt đất, và mọi thứ cây có trái mang hạt giống, để làm lương thực cho các ngươi. Còn đối với mọi dã thú, chim trời và mọi vật bò dưới đất mà có sinh khí, thì Ta ban cho chúng mọi thứ cỏ xanh tươi để làm lương thực”. Thiên Chúa thấy mọi sự Người đã làm ra quả là rất tốt đẹp !

    (Bắt đầu lời dẫn, diễn cảnh Thiên Chúa tạo dựng vạn vật. Từng tốp thụ tạo được dựng nên theo lời dẫn: các vì sao, chim chóc, cá các loại, các loài hoa… và sau cùng là Ađam và Evà)

    Múa 1: Từ thuở hoang sơ

    HOẠT CẢNH 2: CON NGƯỜI SA NGÃ & LỜI HỨA CỨU ĐỘ

    Lời dẫn: Con người là đỉnh cao của tạo thành. Thiên Chúa đã trao cho họ quyền bá chủ cá biển và chim trời cùng mọi dã thú. Mọi thứ trái cây trong vườn con người đều được phép ăn, ngoài trừ trái cây biết lành biết dữ.

    Ngày ấy, con người sống trong tình nghĩa với Thiên Chúa. Ngài yêu thương và chúc phúc cho tình yêu lứa đôi của họ khi phán rằng: “Từ nay, người nam sẽ lìa cha mẹ mà luyến ái với vợ mình, và cả hai sẽ trở nên một xương một thịt”. Ngày ngày, Ađam cùng với vợ mình là Evà được đi dạo với Thiên Chúa trong vườn địa đàng.

    Nhưng niềm hạnh phúc thuở ban đầu đó đã bị chính con người phá hỏng. Mặc dù chỉ là loài thụ tạo, nhưng con người lại muốn bằng Thiên Chúa, nên họ đã bất chấp lề luật của Ngài. Con người đã giơ tay hái trái cấm – là thứ trái cây họ không được phép ăn. Và kết quả là: họ đã bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng, phải chịu đau khổ và phải chết.

    Múa 2: Adam, con ở đâu – Sr Hoàng Phương

    HOẠT CẢNH 3: GIA ĐÌNH I-XA-ÁC VÀ RÊ-BÊ-CA

    Dẫn: Mặc dù con người sa ngã, phạm tội bất tuân lệnh Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa vẫn không đành bỏ mặc con người phải chìm đắm trong tội lụy, trái lại, Ngài vẫn yêu thương và hứa ban Đấng Cứu Thế cho họ.

    Để thực hiện chương trình cứu độ của mình, Thiên Chúa đã chọn Tổ phụ Ab-ra-ham, một người quê ở thành Ur miền Can-đê, để từ nơi ông, một dân tộc được khởi đầu. Ông đã vâng theo Lời Chúa mời gọi mà không một chút băn khoăn, do dự. Ông đã rời bỏ quê hương, xứ sở để lên đường đi đến miền đất mới mà Thiên Chúa hứa ban cho ông và dòng dõi ông. Những năm tháng tại Ca-na-an, ông bà đã sinh được một người con trai khi cả hai ông bà tuổi đã cao niên. Tên nó là I-xa-ác. Chẳng bao lâu sau đó, bà Xa-ra – vợ ông qua đời, để lại cho ông người con trai duy nhất, trong khi ông Ab-ra-ham bấy giờ đã già lắm.

    Đã đến lúc cưới vợ cho I-xa-ác, nhưng theo truyền thống gia đình, ông lại không được tìm trong số các cô gái địa phương xứ Ca-na-an, mà phải về quê cũ để tìm cho được người cùng dòng tộc với mình. Họ hàng của ông thì ở xa, trong khi ông Ab-ra-ham lại không đủ sức để thân hành đi hỏi vợ cho con, mặc dù ông chỉ có một mình nó. Thế nên, ông trao nhiệm vụ nặng nề này cho người lão bộc trong nhà.

    Ab-ra-ham: Này lão bộc!

    Lão bộc: Thưa ông chủ, tôi đây ạ!

    Ab-ra-ham: Tôi có một chuyện quan trọng này, chỉ có ông mới là người đáng tôi chọn mặt gửi vàng mà thôi.

    Lão bộc: Thưa ông chủ, có chuyện gì xin cứ nói.

    Ab-ra-ham: Tôi xin chú đến Pát-đan Aram, nơi sinh sống của người họ hàng tôi tên là Na-kho, để kén vợ cho I-xa-ác.

    Lão bộc: Thưa ông chủ, tôi phải đến tận Pát-đan A-ram cơ ạ? Nếu… nếu cô ấy không chịu theo tôi về thì sao ạ? Liệu… liệu tôi có phải đưa cậu I-xa-ác qua với cô ấy không?

    Ab-ra-ham: Ấy chết, ông không bao giờ được làm chuyện đó.

    Lão bộc: Thưa ông, sao lại thế ạ?

    Ab-ra-ham: Vì Thiên Chúa đã dành miền đất này cho dòng dõi tôi. Lẽ nào tôi lại còn để con cháu tôi quay về quê cũ nữa.

    Lão bộc: Thưa ông, tôi hiểu rồi. Tôi sẽ lập tức cho gia nhân thắng lạc đà và mang theo những món quà đặc biệt để đi hỏi vợ cho cậu chủ.

    Dẫn: Đoàn người tức tốc lên đường. Sau những chuỗi ngày dài đằng đẵng, cuối cùng, họ cũng tới được nơi mà họ muốn đến. Lão bộc cho lạc đà nằm phủ phục gần bên giếng nước, bên ngoài thành. Lúc ấy, trời đã về chiều, ông tự nhủ:

    Giờ là lúc những người phụ nữ trong làng sắp ra lấy nước. Nhưng cô nào sẽ là người dành cho cậu I-sa-ác đây? Biết làm sao bây giờ nhỉ? Thật là khó cho mình quá!

    Dẫn: Suy nghĩ một hồi, lão bộc sấp mình xuống thưa chuyện với Thiên Chúa, theo cách ông đã từng nghe thấy chủ mình làm:

    Lão bộc: Lạy Đức Chúa, xin giữ lời Ngài đã hứa với chủ con là Ab-ra-ham. Con cần được Ngài phù trợ để tìm cho cậu I-xa-ác – con trai của chủ con - một người vợ. Đây, con sẽ nói với một trong mấy cô gái kia: “Cô làm ơn cho tôi xin miếng nước trong vò của cô. Nếu cô ấy nói: Con cũng sẽ đem nước cho lạc đà của bác nữa, thì đó chính là người con gái Ngài dành cho cậu I-xa-ác”.

    (Ông chưa khấn xong thì đã thấy một cô gái thật xinh tiến đến, mang vò nước trên vai. Ông bèn mở lời trước):

    Lão bộc: Này cô gái xinh đẹp, cô mang vò nước đi đâu thế?

    Cô gái: Cháu chào bác ạ! Cháu mang vò đi lấy nước về cho gia đình ạ.

    Lão bộc: Ôi! Cháu quả là một cô gái đảm đang.

    Cô gái: Có gì đâu bác! Cháu cũng chỉ làm việc như bao cô gái khác trong làng thôi mà.

    Lão bộc: Này cô gái xinh đẹp, nếu không phiền, cháu có thể làm ơn cho bác xin một chút nước trong vò của cháu được không?

    Cô gái: Ôi, tưởng gì chứ… cháu xin mời bác…không chỉ một chút nước, mà cả vò nước này luôn ạ. Và nếu được, cháu xin mang nước cho cả những con lạc đà của bác nữa ạ.

    (Lão bộc lấy nước trong vò uống. Trong khi đó, cô gái mang nước cho những con lạc đà.)

    Lão bộc: Này cô gái, cháu quả là một người con gái vừa xinh đẹp lại vừa tốt bụng nữa. Để đáp lại lòng tốt của cháu, bác xin tặng cháu một chiếc khuyên vàng và một đôi xuyến vàng như là tặng vật để làm quen, hy vọng cháu sẽ không từ chối.

    Cô gái: Dạ, có gì đâu mà bác lại cho cháu nhiều thế ạ! (e thẹn)

    Lão bộc: Cháu không phải ngại ngùng gì đâu! Chỉ là một chút quà để làm quen thôi mà! Mong cháu nhận lấy để bác được vui lòng.

    Cô gái: Thưa bác, bác đã nói thế thì cháu xin cảm ơn bác ạ!

    Lão bộc: À này, cô gái tốt bụng, cho bác hỏi: Cháu con nhà ai? Nhà cháu ở đâu?

    Cô gái: Thưa bác, cháu tên là Rê-bê-ca, con gái ông Bơ-thu-ên. Ông nội cháu tên là Na-kho.

    Lão bộc: Ôi! Tạ ơn Thiên Chúa! Cháu là con gái ông Bơ-thu-ên, là cháu nội ông Na-kho?

    Cô gái: Vâng, đúng như vậy ạ!

    Lão bộc: Nếu quả đúng như vậy thì hôm nay, bác và phái đoàn cùng đi với bác phải cư ngụ lại gia đình cháu mới được. Vì tất cả họ đều là họ hàng thân thích với ông chủ của bác là ông Ab-ra-ham mà.

    (nói đoạn, lão bộc quỳ sụp xuống tạ ơn Thiên Chúa:

    Lão bộc: Lạy Chúa, con xin cảm tạ Thiên Chúa đã phù trợ con, vì chính Ngài đã đưa con đến với họ hàng của ông chủ, và nhất là đã gặp được người con gái Chúa sẽ cho làm bạn với cậu chủ I-xa-ác của con. Con xin ngàn lần cảm tạ đội ơn Ngài”

    (trong lúc lão bộc cầu nguyện, co gái Rê-bê-ca chạy về nhà kể với mọi người trong nhà những gì đã xảy ra)

    Rê-bê-ca: Anh La-ban, anh La-ban ơi ! mọi người có ai ở nhà không?

    La-ban: Gì thế Rê-bê-ca ? Hôm nay em có chuyện gì vui à ?

    Rê-bê-ca: Không những vui mà còn rất vui nữa là đàng khác. Lại đây em kể cho mà nghe !

    La-ban: Quan trọng thế cơ à ? Anh chỉ nhìn là biết, chắc hôm nay trên đường đi lấy nước, em gái anh lại gặp được chàng hoàng tử nào vừa ý rồi chứ gì ?

    Rê-bê-ca: Anh này, cứ trêu em ! Lại đây em bảo, còn hơn cả hoàng tử nữa ấy chứ. Này nhé, hôm nay, khi vừa ở giếng nước trở về, em gặp một bác đã cao niên, bác ấy nói là lão bộc của ông Ab-ra-ham, là họ hàng với gia đình mình. Bác xin em nước uống, em đã cho bác ấy và cả lạc đà của bác ấy uống nước nữa. Anh biết không, sau khi uống nước, bác đã tặng em một chiếc khuyên vàng này và một đôi xuyến vàng nữa cơ đấy !

    La-ban: Em nói gì cơ ? Nếu quả đúng là lão bộc của Ab-ra-ham thì là người nhà của mình rồi còn gì. Để anh ra đón họ vào nhà mới được.

    Lão bộc: Khỏi cần đi đâu hết, ha ha (cười) tôi đã tới đây rồi. Xin chào tất cả mọi người trong đại gia đình mình. Đúng là nhà cao cửa rộng, thật chẳng hổ ngươi là người nhà của ông chủ tôi là Ab-ra-ham.

    La-ban : Xin kính mời ông vào nhà. Gia đình chúng tôi rất hân hạnh được chào đón ông tới thăm.

    Lão bộc : Thôi, không dài dòng văn tự nữa. Tôi xin tự giới thiệu, tôi là Lão bộc của chủ tôi là Ab-ra-ham. Tôi đến đây theo lệnh của chủ tôi để tìm cho cậu chủ tôi là I-xa-ác một người con gái làm vợ. Quả thật, đối với tôi, đây là một sứ mệnh vô cùng khó khăn. Tôi đâu có biết ai vào với ai cơ chứ, lại nữa, tuổi tôi cũng đã già, thế nên, chả giấu gì các vị, khi ngồi nghỉ ngơi bên bờ giếng ở ngoài thành, tôi đã cầu khẩn cùng Đức Chúa là Thiên Chúa rằng : « Lạy Đức Chúa, xin giữ lời Ngài đã hứa với chủ con là Ab-ra-ham. Con cần được Ngài phù trợ để tìm cho cậu I-xa-ác một người vợ. Đây, con sẽ nói với một trong mấy cô gái kia: “Cô làm ơn cho tôi xin miếng nước trong vò của cô. Nếu cô ấy nói: Con cũng sẽ đem nước cho lạc đà của bác nữa, thì đó chính là người con gái Ngài dành cha cậu I-sa-ác”. Và quả nhiên, cô Rê-bê-ca đây là thực hiện đúng những gì tôi cầu khấn cùng Thiên Chúa. Tôi tin chắc rằng mối duyên này Thiên Chúa đã se định cho hai bạn trẻ, vậy nên…, tôi xin phép được thay mặt cho chủ tôi là ông Ab-ra-ham xin được cưới cô Rê-bê-ca đây về làm vợ cho cậu I-xa-ác, vậy xin hỏi ý kiến gia đình quý vị thế nào ạ?

    Ông Bơ-thu-ên: Tôi thiết nghĩ, mối duyên này quả là có bàn tay Thiên Chúa xếp đặt, vậy thì chúng tôi làm sao có thể cưỡng lại được chứ. Còn Rê-bê-ca, ý con thế nào ?

    Rê-bê-ca : Dạ (e thẹn), con… con hoàn toàn xin vâng theo thánh ý Chúa và sự sắp xếp của bố mẹ ạ ?

    Ông Bơ-thu-ên: Thế thì quả là thánh ý Thiên Chúa rồi còn gì. Còn chần chờ gì nữa cơ chứ, chúng ta cùng nổi nhạc lên, để tạ ơn Thiên Chúa và mở đại tiệc để ăn mừng nào !

    (âm nhạc hân hoan vui mừng, mọi người nhảy múa)

    Dẫn : Sáng hôm sau, người lão bộc của Ab-ra-ham cùng với Rê-bê-ca và đoàn tùy tùng lên đường trở về nhà. Ngay từ giây phút đầu tiên họ gặp nhau, Rê-bê-ca và I-sa-ác đã phải lòng nhau. I-sa-ác cưới Rê-bê-ca làm vợ và họ đã thiết lập một gia đình hạnh phúc. Chẳng bao lâu sau đó, Thiên Chúa ban cho họ hai người con trai sinh đôi là E-sau và Gia-cóp. Họ là những người sẽ tiếp tục viết lên những trang sử hào hùng của dân tộc Ít-ra-en, nhưng trên tất cả là Lịch sử Cứu độ - lịch sử của tình yêu Thiên Chúa dành cho con người.

    HOẠT CẢNH 4: GIA ĐÌNH BÀ NA-Ô-MI VÀ CÔ RÚT

    Dẫn: Tại Bê-lem, một thị trấn nhỏ nằm trên một ngọn đồi, xảy ra nạn đói. Đồng ruộng chỉ còn lại toàn sỏi đá khô cằn. Ở nơi đó, cũng có một gia đình thực sự hạnh phúc. Nhưng cũng như biết bao gia đình khác trong làng, hai ông bà phải tìm đến giải pháp “tha hương cầu thực”. Một ngày kia, Ê-li-mê-lếch nói với bà Na-ô-mi vợ ông rằng:

    Ông Ê-li-mê-lếch : Na-ô-mi này !

    Bà Na-ô-mi : Anh có chuyện gì muốn nói à ?

    Ông Ê-li-mê-lếch : Anh đã nghĩ kỹ rồi. Có lẽ, gia đình chúng ta chẳng thể cầm cự được ở đất mảnh này. Em mau chuẩn bị khăn gói với những gì chúng ta cần dùng, ngày mai, chúng ta sẽ cùng với hai con lên đường đi xa.

    Bà Na-ô-mi: Anh à ! Trời đất thế này, đâu cũng khó khăn, đói kém cả, chúng ta biết đi đâu bây giờ hả anh?

    Ông Ê-li-mê-lếch: Chúng ta đi đến xứ Mô-áp, bên kia sông Gio-đan. Nghe nói, ở đấy người ta có của ăn dư dật. Thôi thì… nhờ ơn Chúa giúp, gia đình chúng ta cứ qua cơn đói kém này rồi tính tiếp.

    Dẫn: Thế là ông Ê-li-mê-lếch và bà Na-ô-mi cùng với hai người con trai của họ lên đường đi đến xứ Mô-áp. (nhạc trên đường đi buồn thảm)

    Nơi đất khách quê người, hai người con trai của họ lớn lên và lấy hai người con gái người Mô-áp làm vợ, một cô tên là Óc-pa, một người tên là Rút. Rồi ông Ê-li-mê-lếch, khoảng mười năm sau, cả hai người con của bà Na-ô-mi cũng chết. Bà Na-ô-mi chỉ còn lại một mình với hai người con dâu người Mô-áp.

    Cũng lúc đó, người ta tin cho bà Na-ô-mi biết ở Bê-lem, quê hương của bà, nạn đói đã chấm dứt. Bà quyết định trở về cố hương. Bà nghĩ thầm:

    Mình phải trở về quê hương thôi. Vì chẳng còn lý do gì để ở lại nơi đất khách quê người này nữa. Nhưng còn hai đứa con dâu thì sao bây giờ nhỉ. (thở dài) Tội nghiệp cho chúng quá. Mình già rồi, sống cảnh góa chồng đã đi một nhẽ, đàng này, chúng nó còn quá trẻ, còn có thể tái giá để đi tìm hạnh phúc cho riêng mình mà. Hay là mình thử hỏi các con xem sao.

    Bà Na-ô-mi: Này, Óc-pa ơi! Rút ơi!

    2 cô con dâu: Dạ! Mẹ cho gọi chúng con ạ !

    Bà Na-ô-mi : Hai con lại đây mẹ có chuyện muốn nói.

    2 cô con dâu : Dạ, chúng con đây, có điều gì, xin mẹ cứ dạy bảo ạ !

    Bà Na-ô-mi : Hai con yêu quý của mẹ, người xưa nói : Con gái là con nhà người ta, còn con dâu mới là con nhà mình. Hai con cũng biết, xưa nay, mẹ coi hai con như con gái của mẹ. Bây giờ mẹ đã già. Bố chồng và chồng của các con đều lần lượt bỏ mẹ con ta mà ra đi về với tiên tổ, bỏ lại 3 mẹ con mình đều trong cảnh góa bụa. Mẹ thì đã già rồi, mẹ muốn trở về Bê-lem, quê hương của mẹ. Mẹ có ý thế này : Nếu các con còn thương mẹ, coi mẹ như mẹ ruột của các con, thì các con hãy về với gia đình của các con, để tìm hạnh phúc cho riêng mình, vì các con đều còn quá trẻ, lại chưa có con để nối dòng. Mẹ nói thế, hai con thấy thế nào ?

    2 cô con dâu : (Chạy lại ôm chân mẹ) : Chúng con xin mẹ thương chúng con, đừng bỏ chúng con mà đi, đừng nói với chúng con những lời như vậy. Cho dù có thế nào, thì chúng con cũng không thể bỏ mẹ một mình được.

    Bà Na-ô-mi : Này Óc-pa, này Rút ! Các con đều đã trưởng thành, các con đều là những cô gái xinh đẹp, nết na, lại còn rất trẻ. Các con hãy can đảm trở về quê hương của các con mà làm lại cuộc đời. Cứ để mẹ tự lo liệu được mà. Vậy giờ đây, mẹ xin từng đứa nói lên tâm tư và nguyện vọng của mình.

    Cô Óc-pa : Thưa mẹ, mẹ dạy như vậy, con xin vâng theo ý mẹ. Nhưng còn…

    Bà Na-ô-mi : Óc-pa ! Mẹ hiểu mà, không cần nhưng gì hết. Mẹ tự biết phải làm gì mà. Can đảm lên con, mẹ tin con sẽ làm được mà !

    Cô Óc-pa : Vậy xin mẹ hãy nhận nơi con một lạy, như là lời tri ân và lời tạ tội của đứa con dâu chưa làm tròn bổn phận của mình. Con xin chào mẹ, con đi.

    Bà Na-ô-mi : Ừ. Óc-pa : Đứng lên con. Con không có lỗi gì cả. Con hãy về với gia đình con. Xin Thiên Chúa chúc phúc cho con.

    Bà Na-ô-mi: Còn con. Rút ! Con cũng hãy theo chị dâu con mà trở về quê hương xứ sở của con đi. Con còn đứng đó làm gì nữa, làm mẹ càng thêm đau lòng.

    Cô Rút : (quỳ sụp xuống ôm lấy chân bà Na-ô-mi) : Xin mẹ đừng ép con bỏ mẹ mà trở về, không theo mẹ nữa ; vì mẹ đi đâu, con đi đó, mẹ ở đâu, con ở đó, dân của mẹ là dân của con, Thiên Chúa của mẹ là Thiên Chúa của con. Mẹ chết ở đâu, con chết ở đó, và nơi đó con sẽ được chôn cất. Xin Thiên Chúa phạt con, nếu con lìa xa mẹ mà không phải vì cái chết !

    Bà Na-ô-mi : Rút !... con của mẹ, nếu con đã nhất quyết như vậy, thì mẹ cũng không ép con thêm nữa. Mẹ con ta cùng sửa soạn lên đường nào. Xin Thiên Chúa hướng dẫn chúng ta.

    Dẫn : Thế là ngày hôm đó, mẹ con bà Na-ô-mi lên đường trở về Bê-lem – quê hương của bà Na-ô-mi. Họ tới Bê-lem vào tháng Tư, vào đúng dịp mà nông dân ở đây bước vào mùa gặt lúa mạch. Bạn bè thân thích của bà Na-ô-mi hớn hở gặp lại bà. Nhưng bà không vui. Vì chồng và các con trai của bà đầu còn nữa)

    Dân làng : Có phải bà Na-ô-mi đấy không ? Đúng là bà Na-ô-mi rồi !

    Bà Na-ô-mi (tỏ ra ngượng ngùng): Đừng gọi tôi là Na-ô-mi nữa, hãy gọi tôi là Ma-ra (là cay đắng) vì Đấng Toàn Năng đã bắt tôi phải chịu quá nhiều cay đắng.

    Mấy người phụ nữ : Kìa bà Na-ô-mi ! Sao bà lại nói thế !

    Bà Na-ô-mi : Không phải thế sao ? Ngày tôi rời quê hương này cùng chồng và các con tôi ra đi, lúc đó tôi của cải dư đầy. Thế mà bây giờ, Đức Chúa đem tôi về hai bàn tay trắng. Gọi tôi là Na-ô-mi làm gì, trong khi Đức Chúa đã làm cho tôi tủi nhục, Đấng Toàn Năng đã để cho tôi đau khổ.

    Nhóm phụ nữ 1: Bà Na-ô-mi, chúng tôi rất cảm thông với hoàn cảnh của bà. Quả là, bà đã mất hết tất cả những nơi có thể cậy dựa: mất chồng, mất con…, nỗi đau này, không dễ dàng khỏa lấp. Nhưng đổi lại, bà lại có được nàng dâu hiếu thảo người Mô-áp này, lại chẳng đáng nhiều đứa con trai của bà hay sao !

    Nhóm phụ nữ 2: Thôi, dù sao bà cũng đã về tới quê hương xứ sở, bây giờ, bà không còn đơn độc nữa, nhưng đã có đứa con dâu và có chúng tôi đây ; chúng ta cùng cậy dựa vào nhau mà sinh sống, chắc chắn Đức Chúa sẽ chúc phúc cho bà và gia đình bà.

    Bà Na-ô-mi cười gượng gạo : Vâng. Tôi cảm ơn bà con. Xin bà con hãy nâng đỡ mẹ con tôi với.

    Dẫn : Ngày tháng êm đềm trôi đi. Nhờ sự che chở của Đức Chúa, qua sự giúp đỡ của dân làng Bê-lem, hai mẹ con bà Na-ô-mi cũng phần nào nguôi ngoai nỗi đau ngày trước. Tới một ngày, bà Na-ô-mi nói với người con dâu :

    Rút à ! mẹ chẳng có bổn phận tìm cho con một chốn an nhàn để con được hạnh phúc sao ? Mà ông Bô-át không phải là chỗ bà con gần của chúng ta đó ư ? Con lại chẳng đã ở với các tớ gái của ông ấy sao ? Này, đêm nay ông phải rê lúa mạch dưới sân lúa. Vậy con tắm rửa đi, xức dầu thơm, khoác áo choàng vào, rồi xuống sân lúa. Con đừng cho ông nhận ra con, trước khi ông ăn uống xong. Khi ông đi ngủ, con hãy để ý xem ông nằm chỗ nào, rồi đến lật góc chăn phủ chân ông mà nằm xuống. Ông sẽ cho con biết con phải làm gì.

    Cô Rút : Thưa mẹ, mẹ dạy gì, con sẽ làm tất cả.

    Dẫn : Cô Rút đi xuống sân lúa và làm tất cả những gì bà Na-ô-mi chỉ dạy. Khi biết được ý định của cô, ông Bô-át nói :

    Này con ! xin Đức Chúa ban phúc lành cho con! Việc hiếu nghĩa thứ hai con đã làm còn có giá trị hơn việc trước; con đã không chạy theo các người trai trẻ, dù họ nghèo hay giàu. Giờ đây, hỡi con, con đừng sợ. Tất cả những điều con nói, ta sẽ làm cho con. Vì mọi người hội họp ở cửa thành này đều biết con là một phụ nữ đức hạnh. Quả thật, hiện nay, ta là người bảo tồn dòng dõi, nhưng còn có người bảo tồn dòng dõi họ hàng với con gần hơn ta. Con cứ qua đêm ở đây. Sáng mai, nếu người ấy muốn dùng quyền bảo tồn dòng dõi đối với con thì tốt, người ấy cứ việc; nếu người ấy không muốn, thì có Đức Chúa hằng sống, ta thề sẽ dùng quyền đó.

    Dẫn: Cô Rút trở về nhà lòng đầy hân hoan. Cô thuật lại với bà Na-ô-mi tất cả những sự việc xảy ra. Ít ngày sau, khi đã có được quyền bảo tồn dòng dõi cách chính thức, ông Bô-át đã cưới cô Rút về làm vợ để gia nghiệp của người quá cố mãi mãi mang tên người đó, và để người đó khỏi bị xóa tên trong đám bà con họ hàng. Trong ngày cưới của họ, tất cả các kỳ mục và dân cư trong thành đều đến chúc phúc cho hai người. Họ nói với ông Bô-át:

    Xin Đức Chúa cho người phụ nữ sắp vào nhà ông được nên giống như bà Ra-khen và bà Lê-a, cả hai bà này đã xây dựng Ít-ra-en. Chúc ông được giàu có ở Ép-pha-ta! Chúc ông được nổi tiếng ở Bê-lem! Chớ gì dòng dõi mà Đức Chúa sẽ ban cho ông nhờ người thiếu phụ này, làm cho nhà của ông được nên giống như nhà của ông Pê-rét, là người con mà bà Ta-ma đã sinh cho ông Giu-đa!”

    Dẫn: Ông Bô-át tỏ ra vô cùng vui và hãnh diện vì những lời chúc tốt đẹp mà dân làng dành cho mình. Ông quyết định cưới cô Rút làm vợ. Nhờ ơn Đức Chúa, nàng đã thụ thai và sinh một con trai. Các phụ nữ trong làng nói với bà Na-ô-mi:

    Chúc tụng Đức Chúa, Đấng hôm nay đã không để cho bà phải thiếu người bảo tồn dòng dõi: tên tuổi con trẻ sẽ được tung hô tại Ít-ra-en! Nó sẽ giúp bà lấy lại sức sống, và sẽ là người nâng đỡ bà trong tuổi già, vì người con dâu biết yêu quý bà đã sinh ra nó, nàng quý giá hơn bảy đứa con trai.

    Bà Na-ô-mi: Vâng! Tôi xin ngàn lần cảm tạ, đội ơn Đức Chúa. Xin cảm ơn bà con rất nhiều!

    Dẫn: trên nền nhạc bài “Trời Cao”: Các bà hàng xóm láng giềng đặt tên cho đứa trẻ là Ô-vết. Đó là cha của ông Gie-sê, là ông nội của vua Đa-vít, là dòng dõi mà Đức Giê-su – Đấng Cứu Thế sẽ ra đời.

    Thời gian thấm thoát thoi đưa. Mới đấy mà đã mười thế kỷ trôi qua. Nhân loại vẫn nhớ về lời hứa ban Đấng Cứu Tinh mà Thiên Chúa đã hứa ban cho nhân loại ngay từ lúc khởi đầu của lịch sử nhân loại. Đặc biệt, là những khi đất nước bị lâm nguy, người dân sống trong cảnh lầm than khốn khổ, họ chỉ biết ngước nhìn trời cao để dâng lên những lời khẩn nguyện tha thiết: “Trời cao hỡi, nào gieo sương xuống. Mây hãy đổ mưa, mưa đức công bình”

    HOẠT CẢNH 5: THIÊN THẦN TRUYỀN TIN CHO ĐỨC MARIA

    Dẫn: Để thực hiện lời hứa ban Đấng Cứu Thế cho nhân loại. Thiên Chúa đã sai sứ thần Gáp-ri-en đến một thành miền Ga-li-lê, gọi là Na-da-rét, gặp một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giu-se, thuộc dòng dõi vua Đa-vít. Trinh Nữ ấy tên là Maria. (Maria đang quỳ gối cầu nguyện. Sứ thần Gabriel xuất hiện)

    Sứ thần: Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà.

    Đức Maria: (tỏ ra bối rối)

    Sứ thần: "Thưa bà Ma-ri-a, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giê-su. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận."

    Đức Maria: Việc đấy sẽ xảy ra thế nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng?

    Sứ thần: "Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. Kìa bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được."

    Đức Maria: "Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói."

    Múa 3: Từ lúc Mẹ nói lời xin vâng

    HOẠT CẢNH 6: THIÊN THẦN TRUYỀN TIN CHO GIUSE

    Lời dẫn:  Khi nghe tin Maria mang thai, Giuse không khỏi lo âu và bối rối.

    (Giuse đang làm mộc, đứng ngồi không yên )

    Giuse: Tại sao lại có thể như vậy được chứ? Nàng là một người con gái nết na và đạo hạnh cơ mà. Tại sao lại có thể như thế được? Nàng có thai khi mà ta và nàng chưa về chung sống với nhau. Việc ấy có nghĩa là sao? Tại sao Maria cứ im lặng, không nói cho ta biết?

    Tố cáo nàng theo luật pháp ư? Không! không thể được. Nếu tin này mà lộ ra bên ngoài, chắc chắn Maria sẽ phải đối diện với án phạt bị ném đá cho đến chết.

    Maria là người mà ta hằng tin tưởng và yêu mến. Ta đã đặt trọn niềm tin vào nàng. Không thể nào nàng lại có thể phản bội ta được.

    Biết đâu, đây lại là ý định của Thiên Chúa. Mà nếu quả thật là thế, thì ta là ai mà dám can thiệp vào chương trình của Ngài. Chi bằng… ta sẽ lìa bỏ nàng cách kín đáo, để mặc Thiên Chúa định liệu.

    (Giuse buồn bã đi chuẩn bị một vài đồ tư trang cần thiết, trong khi vẫn không hết băn khoăn lo lắng. Vừa buồn lại vừa mệt, Giuse ngủ thiếp đi lúc nào không hay. Đang khi ông ngủ, Sứ thần Thiên Chúa hiện đến nói với ông)

    Này ông Giuse con cháu Đavít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là quyền năng Chúa thánh Thần, bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên con trẻ là Giêsu và chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi.Sứ Thần:

    (Khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời Sứ thần nói)

    HOẠT CẢNH 7: CON THIÊN CHÚA GIÁNG SINH

    Lời dẫn: Lời đáp trả của Mẹ Maria và Thánh Giuse đã mở ra cho nhân loại một kỷ nguyên mới - Kỷ Nguyên của Ơn Cứu Độ. Lời “Xin vâng” của các ngài đã mở đường cho Con Thiên Chúa đến với nhân loại.

    “Ngôi Lời đã trở nên người phàm” trong một đêm đông lạnh giá, giữa cánh đồng hoang vu. Biến cố ấy được xảy ra vào thời của Hoàng đế Xêdarê Augustô đang trị vì. Ông đã ra lệnh truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ.

    Ngày ấy, tại Bêlem, sau khi lệnh của hoàng đế Augustô được ban hành, dân chúng nô nức đổ về để kiểm tra dân số đông như trảy hội. Trong đoàn người đó, có cả Giuse và người bạn đời của mình là Maria đang sắp đến ngày sinh con. Đêm đã về khuya mà hai ông bà vẫn chưa tìm được một chỗ trong quán trọ. Đi đến đâu, hai ông bà cũng chỉ nhận được cái lắc đầu từ chối, có lẽ chỉ vì Maria đang bụng mang dạ chửa! Biết về đâu bây giờ...

           Sau một hồi tìm kiếm, Giuse quyết định đưa Maria - vợ mình - tới một hang đá nơi cánh đồng Belem. Và rồi... đúng như lời các ngôn sứ đã tiên báo: “Một trẻ thơ đã ra đời cho chúng ta. Một Hài Nhi được sinh ra cho chúng ta” - điều mà muôn dân hằng mong đợi, con người hằng khao khát.

    Múa 4: Tiếng hát Thiên Thần

    LỜI KẾT

    Kính thưa cộng đoàn, qua những câu chuyện về các gia đình trong Kinh Thánh mà quý vị vừa theo dõi, đã phần nào lột tả được bức tranh đầy sống động của đời sống hôn nhân gia đình. Quả thật, ơn gọi sống đời hôn nhân gia đình cũng như bất cứ ơn gọi nào khác, đều không phải là những con đường hoàn toàn bằng phẳng, nhưng được dệt nên bởi những đường chỉ đủ sắc màu: niềm vui và hạnh phúc xen lẫn với nỗi buồn và khổ đau. Thêm vào đó, gia đình và cách riêng là các gia đình trẻ hôm nay đang phải đối diện với nhiều thách đố, đặc biệt là thách đố về căn tính của hôn nhân gia đình, đó là sự đơn nhất và bất khả phân ly.

    Chính vì vậy, hơn bao giờ hết, các gia đình trẻ đang rất cần ánh sáng của Lời Chúa soi dẫn, cần những bàn tay nâng đỡ, cần sự đồng hành, cảm thông của mọi thành phần dân Chúa, để họ có thể vượt qua được những thử thách, cùng nhau đi trọn con đường tình yêu mà Thiên Chúa đã tặng ban cho họ.

    Giờ đây, trong niềm vui mừng Con Thiên Chúa Giáng trần, xin kính mời cộng đoàn cùng hướng về hang đá Bê-lem, để cầu xin Gia đình Thánh Gia – mẫu gương của các gia đình – ban ơn, giúp sức cho chính gia đình của mỗi chúng ta, cũng như cho các gia đình trên toàn thế giới, để mọi gia đình đều trở thành ngôi nhà cầu nguyện, mái ấm yêu thương và nơi đào tạo con người trưởng thành toàn diện.

    (Múa 5: Tổng hợp diễn viên: Tiếng chuông sinh nhật)

    Bài viết liên quan

    LIÊN KẾT GIỚI TRẺ